Nấm truffle châu Phi (thảo nguyên): ăn được, mô tả và hình ảnh

Tên:nấm châu Phi
Tên Latinh:Terfezia leonis
Kiểu: Ăn được
từ đồng nghĩa:Nấm truffle thảo nguyên, nấm truffle Tombola, terfezia sư tử màu vàng, Terfezia Arenaria, Choiromyces leonis, Rhizopogon leonis
Phân loại:

chủ thể:

  • Khoa: Ascomycota (Ascomycetes)
  • Phân khu: Pezizomycotina (Pezizomycotina)
  • Lớp: Pezizomycetes
  • Phân lớp: Pezizomycetidae (Pezizomycetes)
  • Đặt hàng: Pezizales
  • Họ: Terfeziaceae (Terfeziaceae)
  • Chi: Terfezia (nấm cục sa mạc)
  • Loài: Terfezia leonis (nấm cục châu Phi)

Truffles được gọi là nấm có túi thuộc bộ Peciaceae, bao gồm các chi Tuber, Choiromy, Elaphomyces và Terfezia. Chỉ những giống thuộc chi Tuber mới là nấm cục thực sự. Chúng và các đại diện ăn được của các chi khác là những món ngon có giá trị. Nấm cục phát triển dưới lòng đất, sinh sản bằng bào tử và hình thành nấm rễ với nhiều loại cây khác nhau.Về hình thức, chúng giống như những củ khoai tây nhỏ có hình dạng bất thường, có mùi thơm nồng của quả óc chó hoặc hạt rang. Nấm lây lan nhờ sự trợ giúp của động vật, chúng tìm thấy chúng bằng khứu giác và sau đó phát tán bào tử của chúng. Truffle thảo nguyên là tên gọi chung của các loại nấm thuộc chi Terfezia, bao gồm khoảng 15 loài. Một trong số đó, nấm cục châu Phi, sẽ được thảo luận thêm.

Nấm cục thảo nguyên trông giống như những củ khoai tây nhỏ không tốt cho sức khỏe

Nấm cục thảo nguyên trông như thế nào?

Nấm truffle thảo nguyên châu Phi (Terfezia leonis hoặc Terfezia araneria) mọc thành tổ từ 3-5 miếng. Nó trông giống như một củ khoai tây hình cầu, có hình dạng không đều, bề mặt nhẵn hoặc hạt mịn, có màu nâu. Nấm trồng khi sờ vào có vẻ chắc chắn nhưng khi chín chúng trở nên mềm và đàn hồi hơn. Quả thể có đường kính 2-12 cm, khối lượng 20-200 g, ban đầu có màu nhạt, màu vàng nhạt, khi lớn lên có màu nâu kem, sau chuyển sang màu nâu hoặc đen. Trong giai đoạn phát triển ban đầu, chúng nằm giữa một đám sợi nấm dày đặc, sau đó chúng nằm tự do trong lòng đất, liền kề ở một bên. Cùi của nấm thảo nguyên có vị bùi, mọng nước, màu trắng kem hoặc hơi vàng, theo thời gian chuyển sang màu nâu, có nhiều gân uốn lượn. Vỏ quả (peridium) có màu trắng hồng, dày 2-3 cm, các túi bào tử nằm ngẫu nhiên bên trong cùi, chứa tới 8 bào tử hình trứng hoặc hình cầu, khi chín không xẹp thành bột. Nấm truffle thảo nguyên có mùi thơm nhẹ của nấm và hương vị dễ chịu nhưng không đặc trưng. Về chất lượng, nó thấp hơn đáng kể so với nấm cục của Pháp, Ý, trắng và mùa hè.

Vết cắt để lộ phần thịt màu kem với những đường gân màu trắng.

Nấm truffle châu Phi mọc ở đâu?

Môi trường sống của nấm thảo nguyên bao gồm các khu vực khô cằn và bán khô cằn ở Địa Trung Hải, Bán đảo Ả Rập, Bắc Phi, Tây Nam Á, Châu Âu và lãnh thổ của Liên Xô cũ. Nấm thích đất cacbonat có độ pH cao. Hình thành dưới lòng đất, khi lớn lên, chúng nổi lên gần bề mặt nên những nhà sưu tập có kinh nghiệm có thể dễ dàng tìm thấy chúng mà không cần sự trợ giúp của những động vật được huấn luyện đặc biệt. Nấm truffle thảo nguyên thích nghi để tồn tại trong điều kiện nắng nóng và hạn hán khắc nghiệt. Nó có mối quan hệ cộng sinh với các loại thảo mộc và cây bụi thuộc họ Cistus. Chúng ra quả từ tháng 8 đến tháng 11.

Có thể ăn nấm truffle thảo nguyên

Lịch sử sử dụng nấm truffle Châu Phi trong ẩm thực đã có từ hơn 2.300 năm trước. Về thành phần sinh hóa, nấm không khác biệt so với các loại nấm khác, còn chứa protein, chất béo, carbohydrate, vitamin A, B1, B2, PP, C, carotene và chất xơ. Các nguyên tố vi mô và vĩ mô được chứa trong đó với số lượng nhỏ:

  1. Chất chống oxy hóa có trong chế độ ăn uống cân bằng, nấm có thể làm giảm nguy cơ ung thư.
  2. Các chất dùng trong điều trị đục thủy tinh thể do tuổi già trong y học dân gian và chính thống.

Nấm cục thảo nguyên có tác dụng tăng cường và kích thích chung cho cơ thể, đồng thời có tác dụng có lợi cho hệ thống miễn dịch và hệ thần kinh.

Nhân đôi sai

Nấm truffle thảo nguyên có các loại nấm tương tự, việc tiêu thụ chúng sẽ dẫn đến ngộ độc. Đáng chú ý là chúng hoàn toàn an toàn cho động vật và không chỉ là thức ăn cho chúng mà còn là thuốc.

Nấm hươu (Elaphomyces granulatus)

Các tên gọi khác của nấm là elaphomyces dạng hạt, parga, parushka. Sự giống nhau với nấm truffle thảo nguyên được xác định bởi đặc điểm bên ngoài của nó và thực tế là nó cũng mọc dưới lòng đất.Quả thể hình cầu, bề mặt nhẵn hoặc có mụn cóc, màu nâu hoặc đen. Vỏ cắt có màu hồng hoặc xám. Cùi có màu xám, khi chín sẽ vỡ vụn thành bột bào tử và có mùi khoai tây sống. Truffle hươu tạo thành mycorrhizae với cây lá kim. Phát triển từ tháng 7 đến tháng 11.

Cá nóc thông thường (Scleroder macitrinum)

Quả thể được đặt dưới lòng đất và nổi lên bề mặt khi chúng lớn lên. Chúng có dạng củ, dày đặc và khó chạm vào. Vỏ ngoài có màu nâu vàng, phủ đầy vết nứt và vảy màu nâu. Cùi của nấm non có vị bùi, mọng nước và nhẹ. Theo thời gian, nó sẫm màu từ giữa ra rìa, chuyển sang màu nâu hoặc tím đen và có mùi hăng, khó chịu. Khi quả bóng giả chín, một vết nứt hình thành ở trên cùng, qua đó bột bào tử thoát ra. Nấm có độc và việc tiêu thụ nó có thể gây tử vong.

Cây chổi melanogaster

Một loài quý hiếm, được liệt kê trong Sách đỏ của vùng Novosibirsk. Thân quả có dạng củ không đều, đường kính tới 8 cm, màu nâu, bề mặt nhẵn hoặc hơi phớt. Cùi có màu nâu hoặc nâu đen, bao gồm các khoang tròn chứa đầy chất sền sệt. Melanogaster có mùi trái cây dễ chịu. Nó mọc trong các khu rừng rụng lá, nằm nông trong đất dưới lớp lá rụng. Được phân loại là một loại nấm không ăn được.

Melanogaster mơ hồ

Hình dạng của nấm thay đổi từ hình cầu đến hình elip, vỏ ngoài mờ, mịn như nhung, màu nâu xám hoặc nâu ô liu, nứt nẻ theo tuổi.Cùi có màu trắng với các khoang màu xanh đen, khi chín có màu nâu đỏ hoặc đen với các vệt trắng. Mẫu non tỏa ra mùi thơm trái cây dễ chịu, trong khi mẫu trưởng thành tỏa ra mùi khó chịu gợi nhớ đến hành thối.

Rhizopogon thông thường (Rhizopogon Vulgaris)

Thân quả tròn, màu nâu của Rhizopogon với đường kính lên tới 5 cm được tìm thấy trong các khu rừng lá kim. Nấm non sờ vào mềm mượt, nấm già mịn. Bên trong nấm dày đặc, màu vàng nhạt, đôi khi có màu xanh nâu. Bột giấy bao gồm nhiều buồng bào tử hẹp. Nó được coi là có thể ăn được, nhưng nên ăn những quả thể non.

Những người hái nấm thiếu kinh nghiệm có thể nhầm các mẫu non của một số loại nấm rễ, nấm rễ và sơn bóng dưới lòng đất với nấm cục thảo nguyên.

Quy định về thu thập và sử dụng

Để thu thập nấm cục châu Phi, trước tiên bạn phải tìm thấy chúng. Những nơi mà những loại nấm này phát triển được xác định bởi những cây mà chúng hình thành nên nấm rễ - trong trường hợp này là cây cistus hoặc cây hướng dương. Nấm cục thảo nguyên bộc lộ sự hiện diện của nó bằng một vết sưng nhỏ hoặc vết nứt trên đất. Nấm được đào ra bằng thìa hẹp đặc biệt, cố gắng không làm hỏng sợi nấm. Việc chạm tay vào thân quả là điều cực kỳ không mong muốn vì điều này làm giảm đáng kể thời hạn sử dụng của quả. Cần nhớ rằng nấm cục mọc thành tổ, nếu phát hiện được một cây nấm thì bạn nên tìm những cây nấm khác ở gần đó.

Khuyên bảo! Giống như bất kỳ loại nấm nào khác, nấm truffle thảo nguyên mọc ở những nơi cố định: tìm thấy sợi nấm một lần, bạn có thể đến với nó nhiều lần.

Nó được sử dụng trong nấu ăn, y học và thẩm mỹ. Nấm có thể ăn sống hoặc nấu chín theo bất kỳ cách nào bạn muốn.Nó được thêm vào nước sốt, salad và thêm vào súp như một loại gia vị thơm. Nấm không cần gọt vỏ. Nó được rửa kỹ, sau đó được cắt cùng với nó hoặc xay.

Phần kết luận

Nấm truffle thảo nguyên là một loại nấm ngon, tốt cho sức khỏe, bổ dưỡng và có đặc tính chữa bệnh. Nó thua kém nấm cục thật về đặc điểm hương vị, nhưng ở một số nước trên thế giới, nó chỉ có giá trị vì nó có thể tồn tại trong điều kiện nắng nóng và hạn hán khắc nghiệt. Người Bedouin đánh giá cao loại nấm này và coi nó là một món quà đặc biệt của Chúa. Họ gọi anh ấy là Sheikh. Nấm truffle châu Phi thậm chí còn được nhắc đến trong kinh Koran như một phương thuốc chữa các bệnh về mắt.

Để lại phản hồi

Vườn

Những bông hoa