Nội dung
Bí ngô làm thuốc là một giống được nhân giống bởi các nhà nhân giống của Viện nghiên cứu trồng cây toàn Nga ở Kuban. Năm 1994, nó được đưa vào Sổ đăng ký Nhà nước Liên bang Nga và được phép trồng trọt. Giống này có tên như vậy do hàm lượng khoáng chất và vitamin trong cùi cao.
Mô tả thuốc bí ngô
Bí ngô làm thuốc là cây trồng hàng năm thuộc họ bí ngô. Nó có dây leo ngắn nhưng rộng, tạo thành một bụi có độ dày vừa phải. Thân cây khỏe, rậm rạp, tròn trịa, xù xì, không có rãnh. Nhà máy sản xuất con riêng. Lá có màu xanh, to, không bị mổ xẻ, có hình ngũ giác.
Đây là loại cây trồng thụ phấn chéo, khác gốc. Những bông hoa có màu vàng, có năm cánh hoa và hình thành buồng trứng trên những bông hoa cái đã thụ phấn. Thân cây có hình trụ.
Mô tả các loại trái cây
Quả bí thuốc có hình tròn, hơi dẹt, phân đoạn yếu. Vỏ cây mỏng, mịn và dễ làm sạch. Trong ảnh Bí ngô dược liệu, bạn có thể thấy một số tùy chọn màu sắc cho quả chín - từ màu xanh xám đồng nhất với các sọc trắng dọc đến màu xám, với hoa văn rõ rệt ở dạng lưới màu xám đen. Khi cắt ra có màu vàng xanh. Cùi có màu cam nhạt, giòn, ngon ngọt.Quả to, trọng lượng trung bình từ 3 đến 6 kg. Những người làm vườn đã thu được những quả bí ngô nặng hơn 8 kg, bằng chứng là những bức ảnh và bài đánh giá trên các diễn đàn chuyên đề về bí ngô chữa bệnh. Một cây cho ra 3–5 quả bí ngô. Quả có ba khoang chứa đầy hạt hình bầu dục màu trắng cỡ trung bình.
Bí ngô làm thuốc là một loại bí đa năng để bàn. Phần cùi có vị ngọt của nó được sử dụng để làm các món nướng, ngũ cốc, món tráng miệng và nước trái cây. Bí ngô nướng trong lò đặc biệt ngon.
Nó cũng được sử dụng thành công trong dinh dưỡng trẻ em: trẻ em thích vị ngọt đậm đà của cùi và cha mẹ đánh giá cao hàm lượng vitamin và chất dinh dưỡng cao.
Loại rau này đóng một vai trò đặc biệt trong dinh dưỡng chế độ ăn uống. Hàm lượng calo thấp, hương vị dễ chịu và giá trị dinh dưỡng đặc biệt là những phẩm chất mà những người theo chế độ ăn uống lành mạnh yêu thích bí ngô.
Theo mô tả về giống, bí ngô dược liệu rất giàu vitamin B1, B2 và E, đồng thời còn chứa carotene và chất xơ. Người ta tin rằng nó có đặc tính chữa bệnh và giúp điều trị tình trạng thiếu vitamin và các bệnh về đường tiêu hóa.
Phần cùi có lợi của loại bí ngô này được dùng làm mặt nạ và kem dưỡng da mặt, nó cũng được sử dụng trong chăm sóc tóc.
Đặc điểm của giống
Bí ngô làm thuốc là loại bí có quả to, chín sớm. Quả đạt độ chín kỹ thuật trung bình 95 – 105 ngày sau khi gieo, mặc dù điều này phần lớn phụ thuộc vào vùng trồng. Mùa sinh trưởng tương đối ngắn cho phép bí ngô thuộc loại này chín trong điều kiện mùa hè ngắn ngủi.
Mặc dù thực tế là cây bí ngô ưa nhiệt, nhưng giống bí ngô dược liệu có khả năng chống sương giá và cây con được trồng có thể chịu được sương giá ngắn hạn xuống tới -2 ° C và nhiệt độ thay đổi đột ngột.
Giống có khả năng chịu hạn ngắn hạn nhưng rất nhạy với việc tưới nước.
Năng suất phụ thuộc vào điều kiện trồng trọt và vùng khí hậu. Trung bình từ 1 mét vuông. m thu hoạch từ 4 đến 6 kg quả. Từ một bụi chúng thu được khoảng 15 - 20 kg, tương ứng với các chỉ tiêu của giống năng suất cao.
Bí ngô làm thuốc có thời hạn sử dụng lâu - ngay cả ở nhiệt độ phòng, quả vẫn giữ được tất cả phẩm chất của chúng lên đến 10 tháng.
Khả năng kháng sâu bệnh
Bí ngô làm thuốc là loại cây có khả năng kháng bệnh nhưng cũng dễ bị bệnh thối trắng xám, phấn trắng, thán thư. Cách phòng ngừa tốt nhất là quan sát luân canh cây trồng: bạn không nên trồng bí ngô trên đất mà trước đây các loại cây bí ngô khác đã trồng. Một cách khác để tăng khả năng miễn dịch là ngâm vật liệu trồng trong dung dịch thuốc tím yếu.
Các loài gây hại phổ biến nhất là rệp và nhện nhện. Cây trồng cần được kiểm tra thường xuyên để phát hiện các dấu hiệu bệnh tật hoặc sâu bệnh. Các bộ phận bị ảnh hưởng ngay lập tức bị phá hủy và cây trồng được xử lý bằng các chế phẩm thích hợp. Để kiểm soát sâu bệnh, chỉ cần sử dụng dung dịch xà phòng giặt với tro hoặc truyền vỏ hành tây.
Ưu điểm và nhược điểm
Cả người trồng rau nghiệp dư và nông dân đều đánh giá cao giống rau này vì những phẩm chất sau:
- khả năng chống lạnh, chống thay đổi nhiệt độ;
- sự khiêm tốn;
- năng suất cao;
- hương vị ngọt ngào tuyệt vời và giá trị dinh dưỡng đặc biệt;
- sự nhỏ gọn của nhà máy;
- giữ chất lượng.
Tuy nhiên, cũng như các giống bí khác, bí thuốc có những nhược điểm:
- sức đề kháng yếu đối với một số bệnh;
- yêu cầu về đất đai.
Trồng bí ngô làm thuốc
Trồng bí ngô dược liệu không đòi hỏi nhiều nỗ lực: ngay cả người mới bắt đầu cũng có thể đối phó với việc trồng và chăm sóc nó. Tùy thuộc vào điều kiện khí hậu mà lựa chọn phương pháp gieo hạt hoặc không gieo hạt.
Họ bắt đầu gieo bí ngô làm thuốc cho cây con vào tháng 4, cây con và hạt đã trưởng thành được gieo xuống đất vào cuối tháng 5 - nửa đầu tháng 6, khi đất ở độ sâu 10–12 cm ấm lên ít nhất + 12°C. Đối với cây con, điều này tương ứng với 1 tháng tuổi. Lúc này cây non đã có 2-3 lá thật. Nên làm nóng trước vật liệu trồng. 2 tháng trước ngày gieo hạt dự kiến, một túi giấy đựng hạt giống được đặt ở nơi ấm áp, chẳng hạn như bên cạnh lò sưởi. Người ta tin rằng điều này thúc đẩy sự hình thành hoa cái trên cây, trên đó quả được đậu. Ngay trước khi gieo, hạt phải được ngâm trong dung dịch thuốc tím loãng, sau đó cho nảy mầm trong khăn ẩm trong 24 giờ rồi gieo vào từng cốc riêng có độ sâu 5–6 cm, hạt mới gieo phải tưới nước và phủ màng. , vì chúng cần môi trường ẩm để nảy mầm.
Cây non trồng ở nơi cố định được phủ lớp phủ. Điều này sẽ giúp tiết kiệm nước và bảo vệ cây trồng khỏi bị cần sa. Bạn cũng nên che bóng cho cây con trong 3–5 ngày.
Bí ngô dược liệu có thể phát triển trên hầu hết mọi loại đất, nhưng đất thịt nhẹ và thịt pha cát là phù hợp nhất với nó. Nó thường được trồng trên đống phân trộn, nhưng phải lưu ý rằng cây làm cạn kiệt chất nền rất nhiều.
Tiền chất tốt nhất cho loại rau này là khoai tây, hành tây, cà chua, bắp cải, vì những loại cây trồng này không có bệnh và sâu bệnh chung. Không nên trồng bí ngô sau bí xanh, bí, dưa chuột.
Vì giống bụi bí này không hình thành dây leo dài nên khi trồng theo phương pháp cụm vuông chỉ cần duy trì kích thước 60x80 cm là đủ, khi gieo hạt trực tiếp trên bãi đất trống, ít nhất 3 hạt được đặt vào hố trồng. , trong đó còn lại mầm mạnh nhất. Những cây còn lại được cắt tỉa.
Tưới nước cho cây trồng khi lớp đất trên cùng khô đi. Trong trường hợp này, nên tránh úng để cây không bị thối. Trong thời kỳ ra hoa, đậu quả, lượng nước tưới cho mỗi cây tăng lên. Trong quá trình chín, lượng nước tưới giảm đi - do đó cùi sẽ có nhiều đường hơn.
Công việc bắt buộc cũng bao gồm làm cỏ và xới đất. Ngoài ra, bí ngô được cho ăn nhiều lần trong mùa bằng phân hữu cơ và phức hợp khoáng.
Để tăng năng suất, người ta kẹp các chồi bên, và sau khi đã đậu một số quả thì thân chính sẽ bị kẹp.
Thu hoạch từ tháng 7 đến tháng 10. Bí ngô được cắt tỉa, để lại một cuống nhỏ. Ở nơi tối, mát mẻ, quả giữ tốt cho đến tháng Năm.
Phần kết luận
Bí ngô làm thuốc là loại bí được người trồng rau ưa chuộng.Sự chín sớm, khả năng chịu lạnh và tính khiêm tốn của nó đặc biệt được yêu cầu trong mùa hè lạnh giá ngắn ngủi của các vùng phía bắc nước Nga, và hương vị tuyệt vời, giá trị dinh dưỡng và những lợi ích đặc biệt của nó đang ngày càng được nhiều người sành sỏi trong số những người tuân theo chế độ dinh dưỡng hợp lý.