Than đá (yêu than, than Foliota, yêu than): ảnh và mô tả

Tên:vảy than
Tên Latinh:Pholiota vùng cao nguyên
Kiểu: Không ăn được
từ đồng nghĩa:Foliota yêu than, foliota than, foliota yêu than
Đặc trưng:
  • Nhóm: tấm mỏng
  • Hồ sơ: hợp nhất với răng
Phân loại:
  • Phòng: Basidiomycota (Basidiomycetes)
  • Bộ phận phụ: Agaricomycotina (Agaricomycetes)
  • Lớp học: Agaricomycetes (Agaricomycetes)
  • Lớp con: Họ Agaricomycetidae (Agaricomycetes)
  • Đặt hàng: Agaricales (Agaric hoặc Lamellar)
  • Gia đình: Strophariaceae (Strophariaceae)
  • Chi: Pholiota (Squama)
  • Xem: Pholiota Highlandensis (Vảy than)

Cinderflake (Pholiota Highlandensis) là một loại nấm bất thường thuộc họ Strophariaceae, chi Pholiota, có thể được tìm thấy ở nơi xảy ra hỏa hoạn hoặc đám cháy nhỏ. Loại nấm này còn được gọi là cinder foliota, loại nấm ưa carbon.

Chất kết dính trông như thế nào?

Lớp vảy có tên như vậy vì bề mặt có vảy của quả thể. Nó thuộc về nấm nhựa. Các đĩa nằm cách nhau một khoảng ngắn, hợp nhất với cuống và chứa các bào tử.Ở những mẫu còn non, các đĩa có màu xám, nhưng khi bào tử phát triển và trưởng thành, màu sắc chuyển sang màu nâu đất sét.

Bức ảnh dưới đây cho thấy vảy than ở trạng thái trưởng thành, khi màu của các tấm đã chuyển sang màu nâu.

Mô tả nắp

Mũ của vảy non ưa than có hình bán cầu, trong quá trình sinh trưởng sẽ mở ra. Đường kính từ 2 đến 6 cm, màu sắc không đồng nhất, màu nâu pha chút cam, màu nhạt dần về phía mép. Bề mặt của nắp dính, có vảy dạng sợi và óng ánh, có kích thước nhỏ. Do độ ẩm cao, khi thời tiết ẩm ướt, mưa nhiều, da mũ trở nên trơn trượt, dính đầy chất nhầy, khi trời nóng thì dính và sáng bóng. Các mép có hình gợn sóng, ở giữa mũ có một củ rộng cắt cụt. Cùi khá đặc, lúc bẻ có màu vàng nhạt hoặc nâu nhạt.

Chú ý! Cùi của than ưa than không có mùi, vị đặc biệt nên không có giá trị ẩm thực.

Mô tả của chân

Chân dài, có thể đạt chiều cao tới 60 mm và đường kính lên tới 10 mm. Phần dưới được bao phủ bởi các sợi màu nâu, phần trên có màu nhạt hơn, giống hệt nắp. Bản thân chân có vảy nhỏ có màu từ đỏ đến nâu. Vùng vòng được đánh dấu màu nâu nhưng mờ đi nhanh chóng nên dấu vết gần như không nhìn thấy được.

Nấm có ăn được hay không?

Tính ưa than của Foliote là do một số loại nấm không ăn được. Do không có giá trị ẩm thực, vì nó không có vị và không mùi nên thực tế không được sử dụng làm thực phẩm. Trong một số trường hợp hiếm hoi, nấm được luộc rồi chiên hoặc ngâm.

Nó phát triển ở đâu và như thế nào

Lớp vảy than bắt đầu phát triển vào mùa xuân, thường thấy nhất từ ​​​​đầu tháng 6 đến tháng 10. Nó phát triển ở vùng khí hậu ôn đới và được coi là phổ biến nhất ở Châu Âu, Châu Á và Bắc Mỹ. Ở Nga, bạn có thể tìm thấy nó ở những nơi có đám cháy cũ trong các khu rừng lá kim, rụng lá và hỗn hợp. Nó chủ yếu phát triển trên lãnh thổ từ Kaliningrad đến Vladivostok.

Nhân đôi và sự khác biệt của họ

Do tính chất phát triển của nó, cụ thể là ở vị trí các hố lửa cũ, vảy than không có các loại nấm sinh đôi hoặc các loại nấm tương tự. Nhưng nếu chúng ta so sánh, thì trong hầu hết các trường hợp, về bề ngoài, nó giống với những chiếc ghế đẩu và những loài không ăn được thuộc chi Scaly.

Phần kết luận

Cinder Flake là một loại nấm không có gì nổi bật vì nó không có đặc điểm gì về hình thức cũng như mùi vị. Nhưng nó rất dễ nhớ vì nơi nó mọc khá khác thường.

Để lại phản hồi

Vườn

Những bông hoa