Bệnh Mycoplasmosis ở gia súc: triệu chứng và điều trị, phòng ngừa

Bệnh mycoplasmosis ở bò là bệnh khó chẩn đoán và quan trọng nhất là khó chữa, gây thiệt hại kinh tế đáng kể cho người chăn nuôi. Mầm bệnh lây lan khắp thế giới nhưng do “ngụy trang” thành công nên bệnh thường bị xác định nhầm.

Bệnh mycoplasmosis là loại bệnh gì?

Tác nhân gây bệnh là một sinh vật đơn bào chiếm vị trí trung gian giữa vi khuẩn và virus. Đại diện của chi Mycoplasma có khả năng sinh sản độc lập, nhưng chúng không có màng tế bào vốn có của vi khuẩn. Thay vì loại thứ hai, mycoplasma chỉ có màng sinh chất.

Nhiều loài động vật có vú và chim, kể cả con người, dễ mắc bệnh mycoplasmosis. Nhưng những loại virus đơn bào này, giống như nhiều loại virus, có tính đặc hiệu và thường không truyền từ loài động vật có vú này sang loài động vật có vú khác.

Bệnh Mycoplasmosis ở gia súc do 2 loại gây ra:

  • M. bovis gây viêm phổi ở bò;
  • M. bovoculi gây viêm kết giác mạc ở bê.

Viêm kết giác mạc là một trường hợp tương đối hiếm gặp. Bê có nhiều khả năng để có được nó. Về cơ bản, bệnh mycoplasmosis ở bò biểu hiện dưới 3 dạng:

  • viêm phổi;
  • viêm đa khớp;
  • ureaplasmosis (dạng sinh dục).

Vì hai dạng đầu tiên hòa nhập với nhau một cách trơn tru nên chúng thường được kết hợp dưới tên chung là viêm phổi. Chỉ gia súc trưởng thành mới mắc bệnh ureaplasmosis, vì trong trường hợp này, nhiễm trùng xảy ra qua quan hệ tình dục.

Đây gần giống như các tác nhân gây bệnh mycoplasmosis ở bò dưới kính hiển vi điện tử.

Nguyên nhân nhiễm trùng

Bê nhạy cảm nhất với mycoplasmas, mặc dù gia súc có thể bị nhiễm bệnh ở mọi lứa tuổi. Những vật mang mầm bệnh mycoplasmosis chính là gia súc bị bệnh và đã khỏi bệnh.

Chú ý! Trong cơ thể động vật được chữa khỏi, mầm bệnh tồn tại từ 13-15 tháng.

Từ động vật bị bệnh, mầm bệnh được thải ra môi trường bên ngoài cùng với các chất dịch sinh lý:

  • nước tiểu;
  • sữa;
  • xả từ mũi và mắt;
  • nước bọt, kể cả khi ho;
  • những bí mật khác.

Mycoplasmas bám vào chất nền, thức ăn, nước, tường, thiết bị, lây nhiễm ra toàn bộ môi trường và truyền sang động vật khỏe mạnh.

Ngoài ra, nhiễm trùng mycoplasmosis ở bò xảy ra theo những cách “cổ điển”:

  • bằng miệng;
  • trên không;
  • liên hệ;
  • trong tử cung;
  • tình dục.

Bệnh Mycoplasmosis không có tính thời vụ rõ rệt nhưng số ca nhiễm lớn nhất xảy ra vào thời kỳ thu đông, khi gia súc được chuyển về trang trại.

Bình luận! Chăn nuôi quá đông luôn là nguyên nhân chính gây ra dịch bệnh.

Khu vực phân bố và cường độ lây nhiễm phần lớn phụ thuộc vào điều kiện giam giữ, cho ăn và vi khí hậu của cơ sở. Bệnh mycoplasmosis ở bò tồn tại “ở một nơi” trong thời gian dài. Điều này được giải thích là do vi khuẩn tồn tại lâu dài trong cơ thể động vật đã khỏi bệnh.

Triệu chứng bệnh mycoplasmosis ở bò

Thời gian ủ bệnh kéo dài 7-26 ngày.Thông thường, các triệu chứng của bệnh mycoplasmosis được quan sát thấy ở bê nặng 130-270 kg, nhưng các dấu hiệu lâm sàng cũng có thể xuất hiện ở động vật trưởng thành. Biểu hiện rõ ràng của bệnh mycoplasmosis chỉ xảy ra 3-4 tuần sau khi nhiễm bệnh. Bệnh lây lan nhanh nhất khi thời tiết lạnh, ẩm ướt và khi có đàn gia súc đông đúc. Các triệu chứng ban đầu của bệnh mycoplasmosis rất giống với bệnh viêm phổi:

  • khó thở: gia súc cố gắng hết sức để hút không khí vào phổi rồi đẩy ra ngoài;
  • ho dữ dội thường xuyên, có thể trở thành mãn tính;
  • chảy nước mũi;
  • đôi khi viêm kết mạc;
  • ăn mất ngon;
  • kiệt sức dần dần;
  • nhiệt độ 40° C, đặc biệt nếu nhiễm trùng thứ phát trở thành bệnh mycoplasmosis;
  • Khi bệnh chuyển sang giai đoạn mãn tính, nhiệt độ chỉ cao hơn bình thường một chút.

Viêm khớp bắt đầu một tuần sau khi xuất hiện bệnh viêm phổi. Với bệnh viêm khớp ở gia súc, một hoặc nhiều khớp bị sưng lên. Cái chết bắt đầu 3-6 tuần sau khi xuất hiện các dấu hiệu lâm sàng.

Viêm khớp ở gia súc là hiện tượng “bình thường” với bệnh mycoplasmosis

Với dạng bệnh mycoplasmosis ở bộ phận sinh dục ở gia súc, người ta quan sát thấy nhiều dịch tiết ra từ âm đạo. Màng nhầy của âm hộ được bao phủ hoàn toàn bằng các nốt nhỏ màu đỏ. Bò ốm sẽ không mang thai được nữa. Viêm vú cũng có thể xảy ra. Ở bò đực, sự sưng tấy của mào tinh hoàn và thừng tinh được xác định bằng cách sờ nắn.

Chẩn đoán bệnh mycoplasmosis ở gia súc

Do các triệu chứng của bệnh mycoplasmosis giống với các bệnh khác ở gia súc nên chỉ có thể thực hiện chẩn đoán bằng phương pháp toàn diện. Khi xác định bệnh, những điều sau đây được tính đến:

  • Dấu hiệu lâm sàng;
  • dữ liệu dịch tễ học;
  • thay đổi bệnh lý;
  • kết quả thử nghiệm trong phòng thí nghiệm.

Sự nhấn mạnh chính là những thay đổi bệnh lý và nghiên cứu trong phòng thí nghiệm.

Chú ý! Các mô và xác động vật chưa được điều trị cần được gửi đi nghiên cứu các biến đổi bệnh lý.

Thay đổi bệnh lý

Những thay đổi phụ thuộc vào diện tích tổn thương chính của mycoplasma. Khi bị nhiễm trùng bởi các giọt trong không khí và tiếp xúc, màng nhầy của mắt, miệng và khoang mũi bị ảnh hưởng chủ yếu.

Trong trường hợp bệnh về mắt, giác mạc bị đục và sần sùi. Kết mạc bị sưng và đỏ. Kết quả của việc khám nghiệm tử thi, tình trạng sung huyết của màng nhầy của đường mũi thường được phát hiện song song với tổn thương mắt. Các tổn thương ở thùy giữa và thùy chính của phổi được phát hiện trong giai đoạn tiềm ẩn hoặc ban đầu của bệnh. Các vết bệnh dày đặc, có màu xám hoặc đỏ xám. Mô liên kết có màu trắng xám. Có dịch tiết nhầy trong phế quản. Thành phế quản dày lên và có màu xám. Các hạch bạch huyết ở vùng nhiễm trùng có thể to ra. Khi bệnh mycoplasmosis trở nên phức tạp do nhiễm trùng thứ cấp, các ổ hoại tử được tìm thấy trong phổi.

Lá lách bị sưng. Thận hơi to về thể tích và có thể xuất hiện xuất huyết ở mô thận. Những thay đổi loạn dưỡng ở gan và thận.

Nếu mycoplasma xâm nhập vào bầu vú, độ đặc của các mô của nó dày đặc, mô nội bào liên kết phát triển quá mức. Áp xe có thể phát triển.

Khi bệnh mycoplasmosis ảnh hưởng đến cơ quan sinh dục của bò, người ta quan sát thấy những điều sau:

  • niêm mạc tử cung sưng tấy;
  • làm dày ống dẫn trứng;
  • khối huyết thanh hoặc huyết thanh có mủ trong lòng ống dẫn trứng;
  • viêm salping mủ-mủ và viêm nội mạc tử cung.

Viêm mào tinh hoàn và viêm mụn nước phát triển ở bò đực.

Chất thải từ mắt và mũi phải được gửi đến phòng thí nghiệm để phân tích.

Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm

Đối với các mẫu sau đây được gửi đến phòng thí nghiệm:

  • chất rửa từ âm đạo của bò;
  • tinh trùng;
  • màng phôi;
  • sữa;
  • mảnh phổi, gan và lá lách;
  • hạch bạch huyết phế quản;
  • những mảnh não;
  • bào thai bị sẩy hoặc chết non;
  • các khớp bị ảnh hưởng ở tình trạng chung;
  • nước rửa và chất nhầy từ mũi nếu đường hô hấp trên bị ảnh hưởng.

Các mẫu mô được chuyển đến phòng thí nghiệm ở dạng đông lạnh hoặc làm lạnh.

Chú ý! Nguyên liệu nghiên cứu được lựa chọn nghiêm ngặt trong vòng 2-4 giờ sau khi chết hoặc bị giết mổ cưỡng bức.

Để chẩn đoán trong tử cung, 2 mẫu huyết thanh được gửi đến phòng thí nghiệm: mẫu thứ 1 khi xuất hiện dấu hiệu lâm sàng, mẫu thứ 2 sau 14-20 ngày.

Điều trị bệnh mycoplasmosis ở gia súc

Hầu hết các loại kháng sinh đều tiêu diệt vi khuẩn bằng cách tấn công vào thành tế bào. Loại thứ hai không có trong mycoplasmas nên không có cách điều trị cụ thể. Để điều trị bệnh mycoplasmosis ở gia súc, một hệ thống phức tạp được sử dụng:

  • kháng sinh;
  • vitamin;
  • chất kích thích miễn dịch;
  • thuốc long đờm.

Việc sử dụng kháng sinh điều trị bệnh mycoplasmosis ở bò được xác định bởi mong muốn ngăn chặn biến chứng của bệnh do nhiễm trùng thứ cấp. Vì vậy, họ sử dụng thuốc phổ rộng hoặc thuốc nhắm mục tiêu hẹp: chỉ ảnh hưởng đến vi sinh vật ở đường tiêu hóa, phổi hoặc cơ quan sinh dục.

Khi điều trị bệnh mycoplasmosis ở gia súc, những điều sau đây được sử dụng:

  • chloramphenicol (khu vực ảnh hưởng chính - đường tiêu hóa);
  • enroflon (thuốc thú y phổ rộng);
  • kháng sinh nhóm tetracycline (được sử dụng trong điều trị hệ hô hấp, sinh dục và các bệnh về mắt).

Liều lượng và loại kháng sinh được bác sĩ thú y kê toa, vì có những loại thuốc điều trị bệnh mycoplasmosis khác không nhằm mục đích điều trị cho gia súc ăn cỏ. Phương pháp sử dụng một chất cụ thể cũng được bác sĩ thú y chỉ định, nhưng hướng dẫn ngắn gọn thường có trên bao bì.

Một trong những loại kháng sinh tetracycline có thể được sử dụng trong điều trị bệnh mycoplasmosis ở bò

Các biện pháp phòng ngừa

Phòng ngừa bệnh mycoplasmosis bắt đầu bằng các quy tắc thú y tiêu chuẩn:

  • không di chuyển động vật khỏi các trang trại không bị ảnh hưởng bởi bệnh mycoplasmosis;
  • chỉ thụ tinh cho bò bằng tinh trùng khỏe mạnh;
  • không đưa vật nuôi mới vào đàn gia súc khi chưa cách ly 01 tháng;
  • thường xuyên tiến hành khử trùng, tiêu độc, khử trùng nơi chăn nuôi;
  • thường xuyên khử trùng thiết bị, dụng cụ trong trang trại;
  • cung cấp cho gia súc những điều kiện chuồng trại và chế độ ăn tối ưu.

Nếu phát hiện bệnh mycoplasmosis, sữa từ bò bị bệnh sẽ được xử lý nhiệt. Chỉ sau này nó mới phù hợp để tiêu thụ. Động vật bị bệnh ngay lập tức được cách ly và điều trị. Các động vật của phần còn lại của đàn được theo dõi. Cơ sở và thiết bị được khử trùng bằng dung dịch formalin, iodoform hoặc clo.

Việc tiêm phòng không được thực hiện do thiếu vắc xin phòng bệnh mycoplasmosis cho gia súc. Cho đến nay, loại thuốc này chỉ được phát triển cho gia cầm.

Phần kết luận

Bệnh mycoplasmosis ở bò là một căn bệnh đòi hỏi người nuôi phải theo dõi liên tục. Đây là trường hợp tương tự khi thà một lần nữa nhầm lẫn một mắt bị tắc đơn giản với bệnh mycoplasmosis còn hơn là khởi phát bệnh. Nồng độ mầm bệnh trong cơ thể càng cao thì việc chữa trị cho vật nuôi càng khó khăn.

Để lại phản hồi

Vườn

Những bông hoa