Nội dung
Bệnh Cryptosporidiosis ở bê là một loại bệnh cầu trùng đặc trưng ở gia súc. Tuy nhiên, không giống như bệnh eimeriosis ở gia súc vốn vô hại so với nền tảng của nó, nó có thể gây thiệt hại kinh tế. Khi bị nhiễm cryptosporidium, bê con chỉ có hai lựa chọn: chết hoặc hồi phục. Hơn một nửa “chọn” cái đầu tiên.
Cryptosporidiosis là loại bệnh gì?
Tác nhân gây bệnh là một sinh vật đơn bào ký sinh có thể gây ra các bệnh về phổi và đường tiêu hóa. Bê dễ bị nhiễm loài Cryptosporidium parvum. Cryptosporidiosis chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh. Tiêu chảy nhiều nước do ký sinh trùng gây ra gây mất nước và tử vong.
Cryptosporidium kích thích sự phát triển của bệnh viêm ruột ở bê. Không giống như Eimeria, những sinh vật đơn bào này không rời khỏi “vật chủ” khi kết thúc vòng đời. Một số trong số chúng vẫn còn trong các tế bào biểu mô của hồi tràng và tiếp tục hoạt động.
Biểu đồ cho thấy 57% các bệnh về đường ruột của bê non là do bệnh cryptosporidiosis, “thuần chủng” hoặc phối hợp với các bệnh nhiễm trùng khác
Sinh bệnh học
Bê dưới 6 tuần tuổi dễ mắc bệnh cryptosporidiosis nhất. Điều này không có nghĩa là động vật già không thể bị nhiễm ký sinh trùng. Hơn nữa, cryptosporidium “đến tay” nạn nhân rất có thể sẽ ở đó mãi mãi. Nhưng khi nhiễm bệnh sau 6 tuần tuổi, bệnh không có triệu chứng.
Các “bào tử” noãn bào xâm nhập vào ruột bê con sẽ chuyển sang giai đoạn phát triển thứ hai – Cryptosporidium parvum sporozoites. Loại thứ hai bám vào các tế bào ở phần trên của ruột non. Sau khi gắn vào, các thoa trùng tạo thành một “bong bóng” bảo vệ ngăn cách ký sinh trùng với cả “môi trường bên ngoài” và nội dung bên trong của tế bào chủ. Màng do cryptosporidium tạo ra cho phép nó nhận chất dinh dưỡng từ vật chủ và bảo vệ nó khỏi phản ứng miễn dịch của vật chủ. Đây là lý do tại sao mầm bệnh rất khó chiến đấu.
Sau khi tạo nơi trú ẩn, thoa trùng chuyển hóa thành tư dưỡng, có khả năng sinh sản hữu tính và vô tính. Trong quá trình sinh sản, 2 loại noãn nang được hình thành. Những tế bào có thành mỏng quay trở lại tế bào biểu mô ruột, lây nhiễm lại vào vật chủ. Những con có thành dày được thải ra môi trường bên ngoài cùng với phân.
Sơ đồ vòng đời của Cryptosporidium
Chẩn đoán bệnh cryptosporidiosis ở bê
Bệnh ở gia súc do 4 loại cryptosporidium gây ra:
- parvum;
- bovis;
- ryanae;
- andersoni.
Nhưng chỉ có nguyên nhân đầu tiên gây bệnh ở bê sơ sinh và giải phóng noãn nang không có triệu chứng ở động vật già. Các nhà nghiên cứu tin rằng sự phân bố của các loại cryptosporidium khác nhau phụ thuộc vào độ tuổi của gia súc. Cryptosporidium andersoni thường ảnh hưởng đến dạ múi khế của gia súc trưởng thành. Ba loài còn lại “có xu hướng” lây nhiễm sang thú non.
Việc chẩn đoán được thực hiện một cách toàn diện:
- triệu chứng;
- tình hình dịch bệnh trên địa bàn;
- xét nghiệm phân trong phòng thí nghiệm.
Phân được kiểm tra theo nhiều cách để đảm bảo độ tin cậy. Trong cả hai phương pháp, mẫu đều được nhuộm màu. Trong trường hợp này, các noãn bào hoàn toàn không bị ố màu hoặc “lấy” sơn một cách yếu ớt. Phương pháp Darling hoặc Fulleborn cũng được sử dụng. Những phương pháp này sử dụng dung dịch bão hòa sucrose hoặc muối.
Triệu chứng
Thời gian ủ bệnh của bệnh cryptosporidiosis ở bê sơ sinh là 3-4 ngày. Triệu chứng nhiễm C. Parvum:
- từ chối ăn;
- tiêu chảy nhiều nước;
- mất nước;
- hôn mê.
Con bê sẽ hôn mê nếu mất thời gian. Do mất nước. Tiêu chảy thường xuất hiện 3-4 ngày sau khi nhiễm ký sinh trùng. Thời gian 1-2 tuần. Sự giải phóng nang trứng ra môi trường bên ngoài xảy ra từ 4 đến 12 ngày sau khi nhiễm cryptosporidium. Những bào tử này trở nên nguy hiểm đối với động vật khỏe mạnh ngay sau khi xâm nhập vào môi trường bên ngoài.
Khi bị nhiễm C. andersoni, loại vi khuẩn mà động vật trưởng thành dễ mắc phải, các dấu hiệu lâm sàng là giảm trọng lượng và sản lượng sữa.
Triệu chứng chính của bệnh cryptosporidiosis ở bê là tiêu chảy nhiều.
Thông số sinh hóa máu
Nhiễm cryptosporidiosis cũng có thể được xác định bằng xét nghiệm máu sinh hóa. Đúng, điều này liên quan nhiều hơn đến chẩn đoán nhằm xác định tình trạng dịch bệnh. Điều trị nên bắt đầu vào ngày đầu tiên.
Với bệnh cryptosporidiosis ở bê, hàm lượng protein tổng số trong máu giảm 9,3%, albumin - 26,2%. Điều này cho thấy sự hấp thụ protein từ ruột bị suy giảm và chức năng gan bị suy giảm. Tổng lượng globulin trong bệnh ở bê tăng 8,9%:
- α-globulin gần như ở mức tương tự;
- β-globulin – cao hơn 21,2%;
- γ-globulin – bằng 8,8%.
Các chỉ số khác cũng thay đổi. Dựa trên kết quả chung của xét nghiệm máu sinh hóa, có thể nói rằng khi bê bị nhiễm bệnh cryptosporidiosis, không chỉ chức năng đường ruột bị rối loạn. Quá trình thoái hóa phát triển ở gan. Điều này không cho phép cơ thể trung hòa các độc tố được hình thành do hoạt động sống còn của ký sinh trùng.
Đặc điểm lây lan của bệnh
Nhiễm nang trứng cryptosporidium ở bê sơ sinh xảy ra qua đường miệng hoặc trong tử cung. Vì bò trưởng thành cũng có thể bị nhiễm bệnh cryptosporidiosis hoặc vẫn mang ký sinh trùng sau khi hồi phục nên bê con sinh ra đã bị bệnh. Trong trường hợp này, các dấu hiệu của bệnh đã xuất hiện 1-2 ngày sau khi sinh.
Bê sinh ra khỏe mạnh bị nhiễm bệnh do tiếp xúc với phân của động vật bị bệnh hoặc do uống nước hoặc thức ăn bị nhiễm phân. Nang trứng có thể có ở mọi nơi trong môi trường nếu rác và chuồng trại không được giữ sạch sẽ.
Cryptosporidiosis có thể lây truyền từ bê sang người
Căn bệnh này nguy hiểm đến mức nào?
Cryptosporidiosis không chỉ mang lại thiệt hại về kinh tế. Nghiên cứu về căn bệnh này đã chỉ ra rằng không chỉ động vật mà cả con người cũng bị nhiễm ký sinh trùng. Hơn nữa, loài C. parvum là tác nhân chính gây bệnh cryptosporidiosis ở thú non.
Vì thực tế không có thời gian để chẩn đoán, người nuôi thường mắc sai lầm và bắt đầu điều trị cho bê con bị tiêu chảy đơn giản, nguyên nhân có thể do ong chúa bị động dục. Theo đó, trẻ sơ sinh hoặc sống sót dù được “điều trị” hoặc chết. Tỷ lệ tử vong do mất nước ở bê non lên tới 60%.
Cách điều trị bệnh cryptosporidiosis ở bê
Không có thuốc hiệu quả chống lại bệnh cryptosporidiosis ở bê. Những điều sau đây thường được quy định để điều trị:
- sulfadimezin;
- cầu trùng hóa học;
- aprolium;
- norsulfazole;
- paromomycin.
Tất cả những loại thuốc này không ngăn chặn được diễn biến của bệnh nhưng làm giảm số lượng noãn bào do bê bị bệnh tiết ra. Cầu trùng hóa học là một thuốc cầu trùng. Những loại thuốc này không chữa khỏi bệnh nhưng cho phép động vật phát triển khả năng miễn dịch.
Polymyxin cũng được khuyên dùng kết hợp với furazolidone trong 6 ngày. Liều kháng sinh là 30-40 nghìn đơn vị. Tổng khối lượng của chế phẩm là 6-10 mg/kg. Ở nước ngoài, tất cả các loại thuốc dành cho bê này đều không được cấp phép.
Halofuginone lactate
Sản phẩm duy nhất được cấp phép là halofuginone lactate. Tuy nhiên, không ai biết chắc chắn về cơ chế tác dụng của thuốc. Có một phiên bản cho rằng nó ảnh hưởng đến các giai đoạn sporozoite và merozoite của cơ thể.
Halokur là một trong những nhãn hiệu phổ biến nhất của halofuginone lactate.
Quy tắc áp dụng
Halofuginone lactate được sử dụng để phòng ngừa và điều trị bệnh cryptosporidiosis ở động vật non. Với mục đích dự phòng, thuốc được sử dụng trong 1-2 ngày đầu tiên sau khi sinh bê. Việc điều trị nên được bắt đầu trong vòng 24 giờ đầu tiên sau khi bắt đầu tiêu chảy. Thuốc được sản xuất ở dạng lỏng. Liều lượng được tính riêng cho từng con bê: 0,1 mg halofuginone trên 1 kg trọng lượng sống. Nồng độ hoạt chất trong thuốc của các nhãn hiệu khác nhau có thể khác nhau. Nhà sản xuất phải ghi rõ liều lượng cụ thể của sản phẩm trong hướng dẫn.
Halofuginone được dùng vào cùng một thời điểm mỗi ngày. Trong quá trình điều trị, bê được cung cấp đủ lượng sữa hoặc sữa non. Thuốc được trộn vào thức ăn trong 7 ngày.
Cấm
Sử dụng halofuginone lactate trên động vật bị suy yếu. Dùng thuốc cho bê bị tiêu chảy trên 24 giờ. Cho ăn thuốc trước khi cho ăn.
Halofuginone lactate không có khả năng ngăn chặn hoàn toàn nhiễm trùng hoặc chữa khỏi bệnh cho bê nhưng nó có tác dụng rút ngắn thời gian tiêu chảy và giảm số lượng noãn nang được giải phóng. Các phương tiện khác thậm chí còn kém hiệu quả hơn.
Liệu pháp bổ trợ
Mặc dù trong trường hợp bệnh cryptosporidiosis, gọi nó là bệnh chính sẽ hợp lý hơn. Bê bị bệnh được cung cấp dinh dưỡng theo khẩu phần. Họ chế tạo ống nhỏ giọt chứa thuốc giúp khôi phục lại sự cân bằng nước-muối. Thuốc sắc bao bọc được hàn.
Sử dụng probiotic
Probiotic cũng được coi là liệu pháp bổ trợ. Họ không thể chữa khỏi con bê. Ở đây bạn chỉ có thể khôi phục hệ vi sinh đường ruột đã chết do sử dụng thuốc kháng sinh. Nhưng có một ý kiến khác: vi khuẩn tự sinh sản tốt. Trong mọi trường hợp, men vi sinh sẽ không làm mọi việc trở nên tồi tệ hơn.
Thuốc được dùng bằng đường uống, với nước ấm thay vì một trong các bữa ăn.
Chất bổ sung có thể được thêm vào bê trong khi cho ăn hoặc trong máng uống
Các biện pháp phòng ngừa
Không có vắc-xin cho bệnh cryptosporidiosis. Họ đang cố gắng tạo ra nó, nhưng cho đến nay vẫn chưa có kết quả. Vì vậy, bạn không nên tin tưởng vào việc tiêm chủng.
Nang trứng rất khó loại bỏ khỏi môi trường nên biện pháp phòng ngừa chỉ có thể là giảm ô nhiễm và kích thích khả năng miễn dịch tự nhiên của bê.
Tạo điều kiện chuồng trại và thức ăn tối ưu cho bò mang thai. Chất độn chuồng được làm sạch thường xuyên và kỹ lưỡng. Khu vực đẻ và chuồng nuôi bê được khử trùng. Có nhiều phương pháp khử trùng khác nhau:
- chiếc phà;
- dung dịch khử trùng dựa trên hydro peroxide, formaldehyd (10%) hoặc amoniac (5%);
- nước nóng sau đó làm khô bề mặt;
- bị lửa đốt.
Nang trứng rất nhạy cảm với nhiệt độ khắc nghiệt: từ -20°C đến +60°C.
Bê bị bệnh ngay lập tức được cách ly. Nhân viên bảo trì được điều trị và kiểm tra một cách có hệ thống để phát hiện sự hiện diện của cryptosporidium trong phân.
Cũng không thể bổ sung đàn gia súc từ các trang trại khó khăn.
Phần kết luận
Bệnh Cryptosporidiosis ở bê là một bệnh khó điều trị và lây truyền sang người. Vì không có vắc xin hoặc phương pháp điều trị căn bệnh này nên nguy cơ nhiễm trùng ở bê phải được giảm thiểu càng nhiều càng tốt. Và ở đây việc phòng ngừa được đặt lên hàng đầu.