Nội dung
Australorp là tên giống được ghép từ các từ “Australian” và “Orlington”. Australorp được phát triển ở Úc vào khoảng năm 1890. Cơ sở là chiếc Orlington màu đen được nhập khẩu từ Anh. Những con Australorps đầu tiên chỉ có màu đen. Australorp đen vẫn là giống phổ biến và được biết đến nhiều nhất hiện nay.
Nhưng Australorp không thể được gọi là Orlington “thuần chủng” của dòng Úc. Khi nhân giống Australorp để cải thiện chất lượng sản xuất của Orlington trong khoảng thời gian từ 1890 đến 1900, Rhode Island Reds đã được sử dụng. Một thời gian sau, giống Menorcan đã được thêm vào Australorps gà, chân trắng và gà Lan Sơn. Thậm chí còn có đề cập đến việc truyền Plymouth Rock. Hơn nữa, bản thân gà Orlington tiếng Anh cũng là con lai của gà Menorca, Leghorn và Lanshan. Nói cách khác, lai chéo đã được sử dụng khi nhân giống Australorp.
Bức ảnh chụp một con gà và một con gà trống thuộc giống Krod Lanshan.
Kết quả thu được được gọi là orpint đen của Úc vào thời điểm đó.
Suy đoán về nguồn gốc của cái tên “Australorp” cũng mâu thuẫn như nỗ lực của những người chăn nuôi gia cầm ở các quốc gia khác nhau nhằm thống nhất về một tiêu chuẩn duy nhất cho gà thuộc giống này.
Màu sắc của Australorps theo tiêu chuẩn của các quốc gia khác nhau
Tại quốc gia mẹ của giống chó này là Australia, chỉ có ba màu của Australorps được công nhận: đen, trắng và xanh. Các màu khác được chấp nhận ở Nam Phi là đỏ, lúa mì, vàng và bạc. Liên Xô đã có lúc “quyết định không tụt lại phía sau” và dựa trên giống Australorp đen và Plymouth Rock trắng, đã phát triển một giống mới - “ Australorp đen trắng”. Đúng, xét về đặc điểm bên ngoài và năng suất, giống chó này có rất ít điểm chung với giống Australorp nguyên bản. Bạn thậm chí có thể nói rằng họ chỉ có một cái tên chung.
Mô tả giống gà Australorp nguyên bản
Australorp ban đầu là một giống gà sản xuất thịt và trứng. Giống như nhiều giống chó khác, Australorp có dạng “kép” - dạng lùn.
Trọng lượng của Australorps nguyên bản
| Dạng lớn, kg | Dạng lùn, kg |
Gà trưởng thành | 3,0 — 3,6 | 0,79 |
Gà trống trưởng thành | 3,9 — 4,7 | 1,2 |
gà mái | 3,3 — 4,2 | 1,3 — 1,9 |
gà trống | 3,2 — 3,6 | 1,6 — 2,1 |
Bức ảnh cho thấy một người lùn Australorp.
Australorp có sản lượng trứng cao. Trong điều kiện công nghiệp, chúng sản xuất 300 quả trứng mỗi năm, nhưng các chuyên gia lưu ý rằng ở sân sau riêng, người nuôi gà thuộc giống này không nên mong đợi nhiều hơn 250 quả trứng. Trong điều kiện ở Nga, với mùa đông lạnh giá và thời gian ban ngày ngắn, gà có thể đẻ không quá 190 quả trứng. Trọng lượng trung bình của trứng là 65 g, màu vỏ màu be.
Tiêu chuẩn dành cho gà Australorp
Vì vẫn chưa có nhiều sự thống nhất về tiêu chuẩn Australorp nên gà Australorp có thể khác nhau về cấu trúc cơ thể. Điều này được minh họa rõ ràng bằng những bức ảnh về loài Australorps màu trắng và xanh.
Điểm chung của tất cả các loại gà: mồng đỏ, khuyên tai, thùy và xương bàn chân sẫm màu không có lông.
Ấn tượng chung: một con chim to lớn, chắc nịch. Đầu nhỏ, có một mào duy nhất. Cái mỏ có màu tối và ngắn. Cổ ngẩng cao, tạo thành tư thế vuông góc với cơ thể. Cổ được bao phủ bởi lông dài. Ngực rộng, lồi, cơ bắp săn chắc. Lưng và lưng dưới rộng và thẳng. Cánh được ép chặt vào cơ thể. Cơ thể ngắn và sâu.
Cái đuôi rậm rạp được đặt gần như thẳng đứng. Gà trống có bím tóc đuôi ngắn, cùng với lông đuôi tạo thành một chùm lông. Ở gà, hình dáng của đuôi thay đổi rất nhiều tùy thuộc vào độ tươi tốt của bộ lông ở phần còn lại của cơ thể. Đôi khi đuôi gà gần như không nhìn thấy được.
Các đầu ngón chân và móng vuốt nhẹ, lòng bàn chân có màu trắng.
Lỗi của giống là thùy màu trắng hoặc trắng.
Gà mái Australorp có chân ngắn hơn gà trống và thường trông giống như những quả bóng lông vũ. Sự xuất hiện của gà phụ thuộc vào hướng chăn nuôi của chúng: sản xuất hoặc triển lãm. Chim triển lãm kỳ lạ hơn, nhưng không hiệu quả.
Australorps đen có lông màu ngọc lục bảo. Australorps đen có thể có những đốm sáng trên bụng và dưới cánh. Điều thú vị là gà con Australorp đen đang trong giai đoạn lông tơ và chỉ chuyển sang màu đen sau khi lột xác.
Gà Australorp ba ngày tuổi.
Ưu điểm của giống
Khả năng thích ứng cao với mọi điều kiện khí hậu. Được nuôi ở lục địa nóng, giống gà Australorp chịu được khí hậu lạnh rất tốt. Gà có khả năng đi lại trong tuyết khá tốt. Nhưng để những con chim này sống sung túc thì nhiệt độ trong chuồng gà phải là 10 độ C.Những con gà này có khả năng chống chọi với cái nóng mùa hè khi lai tạo giống gà này. Tính tình điềm tĩnh, thân thiện. Australorps không đuổi theo những con gà khác. Hiệu suất thịt và trứng tốt. Chúng bay không tốt. Gà mái và gà mái tốt. Chim trưởng thành có khả năng kháng bệnh.
Nhược điểm của giống
Nhu cầu thức ăn chăn nuôi. Khi thiếu chất dinh dưỡng, gà mái Australorp bắt đầu “đổ” trứng. Đây là lý do chính tại sao Australorps vẫn chưa phổ biến ở các sân sau tư nhân. Ở trang trại sân sau, rất khó để cung cấp cho gà một chế độ ăn uống cân bằng.
Giống chín tương đối muộn. Gà chỉ trưởng thành khi được 6 tháng và thường bắt đầu đẻ trứng khi được 8 tháng. Năng suất giảm sau năm đầu đời.
Đặc điểm chăn nuôi
Đàn gà giống thường gồm 10-15 con gà mái đẻ và một con gà trống. Khi hỗ trợ nhiều gia đình, bạn cần nhớ rằng mặc dù tính cách hòa bình của giống chó này, gà trống vẫn có thể chiến đấu. Đồng thời, con đực nặng hơn và năng động hơn nhiều so với con cái.
Trong trường hợp gà trống chính có khả năng sinh sản kém thì thay thế bằng gà trống con. Một con gà trống tốt có thể sử dụng được 5 năm.
Australorp đen trắng
Tuy vẫn giữ nguyên tên gốc nhưng thực chất đây là một giống gà khác. Giống đen trắng được nhân giống tại Viện Chăn nuôi Gia cầm Leningrad bằng cách lai giống Australorp đen với gà trắng. plymouthrock.
Kết quả là có màu merle tương tự như các giống chó đa dạng khác.
Dòng đen trắng bị giảm năng suất thịt rất nhiều. Trọng lượng của gà trưởng thành khoảng 2 kg, gà trống - 2,5 kg. Sản lượng trứng tương tự như Australorp ban đầu: lên tới 190 quả trứng mỗi năm. Trứng có phần nhỏ hơn. Trọng lượng trứng 55 g, vỏ màu be.
Mô tả đường đen trắng
"Người Úc" người Nga có cái đầu nhỏ với chiếc mỏ sẫm màu cỡ trung bình. Chiếc lược có hình hoa hồng. Màu của lược, thùy và bông tai là màu đỏ. Thân máy thanh lịch, nằm ở góc 45° so với phương ngang. Nhìn chung, con gà trống đen trắng tạo ấn tượng về một con chim mỏng manh. Cổ ngắn hơn so với giống bố mẹ và tiếp nối trực quan đường trên của cơ thể.
Cơ ngực phát triển vừa phải. Đuôi được đặt theo chiều dọc và rất giống đuôi gà. Bím tóc ngắn. Chân dài hơn chân của Australorp đen. Màu sắc của bàn chân có thể nhạt hoặc có đốm. Chân dưới không có lông.
Da của gà thuộc giống này có màu trắng. Lông tơ nhẹ. Gà con một ngày tuổi thường có màu vàng, nhưng cũng có thể có màu đen hoặc đốm.
Nghĩa là, sự phát triển của phôi trong trứng do gà đẻ như vậy có thể bắt đầu ngay cả khi không được gà trống thụ tinh. Nguyên nhân gây ra đột biến này vẫn chưa được biết.
Ưu điểm của đường đen trắng
Gà thuộc giống này có khả năng thích ứng tốt với điều kiện khí hậu Nga. Gà cảm thấy dễ chịu cả khi được nuôi ngoài trời và trong lồng. Họ có tính cách điềm tĩnh. Không hung hăng. Ưu điểm chính của giống là khả năng chống bệnh pullorosis. Thịt của giống chó này có hương vị cao. Do có làn da trắng và nhiều lông trắng nên thân thịt gà giết mổ có hình thức trình bày đẹp mắt.
Đánh giá từ chủ sở hữu của cả hai dòng
Phần kết luận
Ở Nga, gà Úc chưa được phổ biến rộng rãi, chủ yếu do yêu cầu khắt khe về thức ăn.Ngay cả thức ăn hỗn hợp công nghiệp cũng có thể không phải lúc nào cũng có chất lượng cao và để tự lập một chế độ ăn uống cân bằng, bạn sẽ phải được đào tạo về kỹ thuật chăn nuôi. Nó dễ dàng hơn để có được những con gà khiêm tốn trong nước. Nhưng những người sành về các loài chim xinh đẹp rất vui khi nuôi những con Úc màu đen, chúng tỏa ánh ngọc lục bảo dưới ánh mặt trời.